Tơ là một loại sợi protein động vật do một số côn trùng nhả ra để làm
kén và mạng nhện. Có nhiều loài côn trùng nhả ra những sợi tơ khác nhau
chứ không riêng gì con tằm. Hầu hết chúng không được dùng vào mục đích
thương mại cho dù vẫn có những nghiên cứu cơ bản về cấu trúc của những
sợi tơ này. Phần lớn tơ là do ấu trùng sản xuất, ít có trường hợp côn
trùng biến thái hoàn toàn nhả tơ. Tơ nhện Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, các côn trùng trưởng thành nhả tơ như
nhện, đặc biệt phổ biến là ở các loài Bộ Cánh màng Hymenoptera (ong, ong
bắp cày và kiến), và đôi khi tơ cũng được sử dụng trong việc làm
tổ. Trong số các loại động vật chân đốt nhả tơ, đáng chú ý nhất là các
loài nhện. Một số lượng nhỏ tơ các loài côn trùng sản xuất, chủ yếu là
nhện, được sử dụng trong các ứng dụng thương mại như vũ khí, kính thiên
văn và các dụng cụ quang học khác. Tuy nhiên, ứng dụng rộng rãi nhất của
tơ thiên nhiên phục vụ cho đời sống con người vẫn là tơ tằm.
Quá
trình sản xuất tơ lụa thương mại rất phức tạp và tốn nhiều công
sức. Sau đây sẽ là những thông tin cơ bản về việc tơ lụa được hình thành
như thế nào. Nghề nuôi tằm Nghề
nuôi tằm lấy tơ đã bắt đầu ít nhất là 5.000 năm từ Trung Quốc và được
truyền bá dần đến các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn độ và Phương Tây.
Riêng ở nước ta, nghề trồng dâu nuôi tằm cũng đã xuất hiện từ thời Hùng
Vương. Nghề nuôi tằm được biết đến như trồng dâu nuôi tằm. Có 4
loại tơ tằm tự nhiên: tơ tằm dâu, tơ tằm thầu dầu lá sắn, tơ tằm sồi và
tơ tằm tạc .Tơ tằm dâu chiếm 95% sản lượng tơ trên thế giới.Mặc dù có
nhiều loài tằm nhả tơ, chỉ có loại tơ sợi được sản xuất bởi loài Bombyx
mori (tiếng Latin: “sâu tằm của cây dâu tằm)- là ấu trùng của các loài
sâu bướm tơ tằm dâu và một vài loài khác trong cùng một chi, được sử
dụng trong ngành công nghiệp tơ lụa thương mại nhờ tính chất dễ chăm sóc
và chất lượng sợi tơ tằm của chúng. Đây là loài sâu tằm được thuần hóa
từ loài hoang dã, nó hoàn toàn phụ thuộc vào con người và không có mặt
trong tự nhiên hoang dã. "Con Tằm", về mặt kỹ thuật, không
phải là một con sâu mà là ấu trùng của con ngài. Tuy nhiên, để cho đơn
giản và nhất quán, chúng ta sẽ sử dụng từ con tằm trong suốt bài viết
này. Ấp trứng Giai đoạn đầu tiên của
quá trình sản xuất tơ lụa là đẻ trứng, trong một môi trường được kiểm
soát chẳng hạn như một hộp nhôm đã được kiểm tra để đảm bảo không lây
nhiễm bệnh, dân gian ta thì dùng một cái bát úp trên một tờ giấy bản,
con ngài cái đẻ một lần 300 đến 400 trứng. Con ngài đẻ trứng Trong
một diện tích với kích thước bằng màn hình của bạn, 100 con ngài sẽ đẻ
khoảng 40.000 trứng, kích thước của mỗi trứng bằng đầu kim, có hình bầu
dục, nhỏ dẹt, vỏ cứng, màu trắng sữa, hoặc hơi vàng, trên vỏ trứng có
nhiều lỗ khí. Khi ngài đẻ xong thì cánh xơ xác, mệt mỏi, phấn trôi khỏi
mình Con ngài cái chết gần như ngay lập tức sau khi đẻ trứng và con ngài
đực cũng chỉ sống được thêm một thời gian ngắn sau đó. Con ngài có phần
miệng bị thoái hóa, nó không ăn được trong thời gian trưởng thành ngắn
ngủi của mình. Màu sắc trứng thay đổi theo giống tằm và
thời gian phát dục: Giống độc hệ và lưỡng hệ kén trắng, khi mới đẻ,
trứng có màu vàng đậm. Trong quá trình phát dục của trứng, màu sắc của
trứng biến đổi như sau: Giống độc hệ và lưỡng hệ (trứng có nghỉ đông)
trứng chuyển từ màu trắng sang màu hồng (sau đẻ 36-48 giờ), rồi chuyển
sang màu nâu đậm hay còn gọi là màu đen (sau đẻ 72 giờ). Khi trứng
chuyển sang màu nâu đậm thì trứng bắt đầu đi vào thời kỳ nghỉ đông và
màu nâu đậm được duy trì trong suốt quá trình nghỉ đông của trứng. Người
ta ứng dụng quá trình nghỉ đông của trứng để vận chuyển. Giống đa hệ
(trứng không nghỉ đông) thì trứng chuyển từ màu vàng sang điểm đen (trên
bề mặt trứng xuất hiện một điểm đen) sau khi đẻ 5-6 ngày, và cuối cùng
toàn bộ bề mặt trứng có màu xanh xám (sau khi đẻ 9 ngày) gọi là trứng
ghim. Những quả trứng nhỏ bé của con ngài được ấp cho đến khi nở
thành ấu trùng (con tằm). Trứng tằm muốn nở đều, tập trung, cần ấp nhiệt
độ 25-26oC, ẩm độ 80-90%, ánh sáng tự nhiên. Chừng mười ngày sau, trứng
tằm đổi từ màu trắng sang màu đen Khi trứng ghim, cần bảo quản tối hoàn
toàn 01 ngày để khi được tiếp xúc ánh sáng tằm nở đều. Độ 3, 4 ngày sau
nữa, nở thành những con sâu nhỏ bằng đầu tăm, lớn bằng tăm xỉa răng,
dài chừng1/2 cm, giống như đám sâu lúc nhúc có màu xanh xám đậm hay màu
đen, có lông, có chân, có đầu, có miệng và có răng. Giai đoạn cho tằm ăn Tằm nở ngày nào được nuôi riêng ngày ấy, trong thời gian đó chúng ngủ và lột xác bốn lần, mỗi lần được định danh thêm 1 tuổi. Vườn dâu tằm- nguồn thức ăn chính yếu của con tằm. Sau
khi nở, tằm được đặt trong một lớp đệm như nong nia và ăn một số lượng
lớn lá dâu non hay bánh tẻ, dùng dao sắc thái thật nhỏ như thái thuốc
lào rồi rắc nhẹ lên mình tằm. Khi nào tằm ăn hết thì lại rắc ngay lớp
khác, suốt ngày đêm chia khoảng 10 bữa. Lá dâu phải sạch, không được
trồng gần ruộng trồng thuốc lào, ớt hay cây trồng khác mà có hơi mùi
thuốc trừ sâu là coi như lá dâu ấy vứt. Tằm cũng có thể ăn Osage màu da
cam là một cây họ dâu tằm hoặc rau diếp tuy nhiên tằm ăn lá dâu tằm sản
xuất tơ tằm tốt nhất, màu tơ đẹp nhất. Mỗi ngày còn phải vệ sinh, thay
tằm. Vì chỗ tằm ăn còn lại những xơ lá và phân tằm; phải giỡ tằm đem
sang nong khác, rồi bỏ chỗ xơ lá và phân tằm đi, thứ này làm đồ bón cây
tốt. Nuôi tằm vất vả ngày đêm, vì vậy dân gian xưa có câu: “Làm ruộng ăn
cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng”.
Tằm ăn như vậy bốn ngày thì mình
vàng ra, nằm yên không ăn nữa gọi là tằm ngủ. Khi 90% tằm ngủ thì người
nuôi tằm ngừng cho ăn. Tằm chuẩn bị ngủ, có màu bóng vàng, ăn ít dâu.
Trong khi tằm ngủ, cần yên tĩnh, ánh sáng yếu, tránh gió lùa và động
mạnh vào nong, đũi. Tằm tuổi 2 và tằm tuổi 5 Tằm
ngủ, ngưng ăn dâu, ít động đậy, đầu ngẩng cao, sau 20-24 giờ tuỳ theo
mùa, lột xác, chuyển sang tuổi sau, tằm dậy. Tằm lột lớp da đen sì đầu
tiên, trở nên màu xanh rất nhạt và lại bắt đầu ăn trở lại. Tằm dậy 95%
thì cho ăn lại, bữa đầu tiên cho ăn lá dâu tươi, thái nhỏ hơn bữa thứ 2
trở đi.Lúc này vẫn phải thái lá dâu nhưng thái hơi lớn cũng được. Sau
bốn ngày nữa, lại ngủ, lại lột da, lại dậy ăn trở lại; lần này màu da
xanh thêm và nhẵn chứ không có lông nữa. Lại ăn lại ngủ cùng thời gian
như trước. Tức là ngủ ba lần rồi dậy ăn. Nuôi tằm con tuổi 1,2,3 có ảnh
hưởng rất lớn đến kết quả nuôi tằm lớn tuổi 4,5. Tằm lên hai, dài cỡ
1cm. Tằm lên ba, 1,5cm. Tằm lên bốn, cỡ 3cm, còn màu xanh xám; Tằm lên
năm, trong thời kỳ ăn rỗi, cơ thể tằm lớn lên rất nhanh, 8,000 - 10,000
lần so với tằm mới nở, bằng đầu đũa ăn cơm, dài chừng 4,5cm. Tằm
tuổi 4 ăn 10%, tuổi 5 ăn 80% lượng dâu của cả lứa. Tính trung bình, tằm
sẽ ăn nguyên liệu thực vật gấp 50.000 lần trọng lượng ban đầu. Thời kỳ
này, tằm bài tiết nhiều, sức đề kháng yếu dễ bị măc bệnh. Khi
đến lần ngủ thứ tư, và cũng là lần cuối cùng trong đời tằm, rồi trở dậy
thì tằm lớn gần bằng ngón tay út, lần này gọi là tằm ăn rỗi. Lúc này thì
rắc cả lá dâu hoặc cả cành nhỏ cũng không sao, tằm ăn rất nhanh, rất
khỏe. Người nuôi tằm chạy dâu bở hơi tai! Cả ngày cả đêm ăn đến 15, 16
bữa. Mỗi ngày phải thay tằm hai lần. Bận rộn nhất là thời kỳ này. Trong
nhà tằm lúc nào cũng nghe tiếng rì rào vì hàng trăm răng tằm nghiến vào
lá dâu. Tằm trở nên màu xanh lục thẫm rất đẹp, da căng bóng. Người nuôi tằm vất vả liên tục ngày đêm Tằm
con có khả năng chịu được nhiệt độ cao, ẩm độ cao hơn tằm lớn và sinh
lý cũng khác tằm lớn nên cần được chăm sóc chu đáo. Ngừng cho ăn dâu quá
sớm trước khi ngủ, cho tằm ăn quá muộn sau khi dậy đều làm cho tằm đói,
cơ thể suy nhược, tạo điều kiện cho bệnh phát triển.Tằm lớn cần nuôi
dưỡng trong môi trường thông thoáng, không khí luân chuyển, trong sạch,
tránh gió lùa mạnh và ánh sáng trực xạ. Trong khoảng sáu tuần
tằm ăn gần như liên tục. Sau khi phát triển đến kích thước tối đa của nó
trong khoảng 6 tuần, nó dừng ăn, thay đổi màu sắc, và nặng hơn khoảng
10.000 lần khi nó nở. Tuổi 5 cho tằm ăn dâu đầy đủ, sau 6-8 ngày tằm
chín. Tằm chín da láng bóng, tằm ngưng ăn dâu, có xu hướng bò đi tìm nơi
thích hợp làm tổ. Khi có ít nhất 1/3 cơ thể con tằm có màu trong suốt
là thời điểm tằm đã sẵn sàng để đóng kén. Đóng kén Khi tằm chín vàng, được bắt lên né đóng kén, phải thật nhanh tay để tằm tránh khỏi cay mắt. Đưa tằm lên né kéo kén Né
là tấm phên đan bằng tre, có những lỗ hổng vuông rộng mỗi bề độ mười
phân. Nhặt tằm đã chín bỏ vào né, đem để ra chỗ hơi có ánh nắng. Khi tằm
đang đóng kén, người nuôi phải “hong nắng” và “sưng sấy” sao cho kén
khô, thơm để khi ươm tơ kén không bị tan, cho sợi tơ vàng óng, thuận lợi
cho người ươm tơ.Thiếu ánh nắng, tằm làm kén không được đẹp, vì trước
khi nhả tơ làm kén, tằm... đi tiểu lần đầu và là lần cuối trong đời tằm
rồi mới bắt đầu làm kén. Ánh nắng nhẹ làm khô nước tiểu tằm và kén sẽ có
màu vàng đỏ rất đẹp; trái lại nếu tằm chín phải ngày mưa, phải để né ở
trong nhà thì kén có màu không được tươi, vì chất nước tiểu tằm thấm vào
kén. Nhưng cũng chỉ canh để cho ánh nắng nhẹ thôi, nắng nóng tằm cũng
chết mà không làm kén được. Con tằm nhả tơ kéo kén Tằm tự gắn nó trên né để nhả tơ đóng kén trong khoảng thời gian 3-8 ngày.
Tằm
có một cặp tuyến nước bọt đặc biệt được sử dụng cho việc sản xuất tơ,
chất lỏng protein trong suốt, nhớt được tiết ra qua các lỗ hở gọi là lỗ
nhả tơ trên phần miệng của con tằm. Đường kính của lỗ nhả tơ xác
định độ dày của sợi tơ, được nhả thành một sợi dài liên tục. Chất lỏng
đông cứng lại khi tiếp xúc với không khí và tạo thành một cặp sợi tơ
protein. Các tuyến tiết ra một cặp một chất lỏng thứ hai gọi là sericin,
một dạng sáp kết hai sợi tơ với nhau, bảo vệ sợi tơ và kén tằm.
Đều
đặn trong vòng bốn ngày liên tiếp, con tằm xoay cơ thể của nó trong một
chuyển động hình số 8 khoảng 300.000 lần, xây dựng nên một cái kén và
nhả ra khoảng một km sợi tơ rồi hoá nhộng hoàn toàn. Cái kén tằm được
tạo ra để giúp con tằm chống đỡ ngoại cảnh bên ngoài và kẻ thù tự
nhiên.Tằm cả đời chỉ vất vả chăm lo cho việc ăn của mình, kế đó là làm
sao có được cái tổ kén vàng bền đẹp, bên ngoài là các sợi tơ óng mượt,
bên trong là một lớp vỏ mịn màng và không kém phần bền chắc, để rồi đến
cuối của vòng đời, tằm sẽ yên nghỉ một cách bình an trong đó, kệ cho tạo
hóa xoay vần “thành nhộng”. Cả vòng đời của tằm vất vả như thế đó. Khi
tằm chín vàng bắt đầu làm kén thì nó tròn và dài độ bằng ngón tay út.
Khi nó làm kén xong thì tằm thu hình lại, ngắn còn bằng nửa ngón út, lột
lớp da tằm ra trở thành con nhộng, mình tròn mập, thon hai đầu, không
cánh không chân không mắt, chịu nằm tù trong kén. Đã mang lấy cái thân tằm Không vương tơ nữa cũng nằm trong tơ Trong
hình trên bạn thấy có hai màu: trắng và vàng là do hai giống tằm khác
nhau đóng kén cho màu khác nhau. Giống tằm kén trắng cho sợi tơ dài hơn,
mỗi kén kéo được khoảng 700 mét tơ, năng suất cao hơn nhưng không chịu
được nhiệt độ mùa hè Việt nam. Giống tằm kén vàng là giống tằm truyền
thống của người Việt, cho màu đẹp nhưng năng suất thấp hơn, mỗi kén chỉ
được khoảng 300 mét tơ. Lúc này người nuôi tằm gỡ kén, kết hợp
phân loại sơ bộ. Hầu hết sẽ được đưa đi ươm tơ ngoại trừ một ít kén to,
đều được lựa chọn riêng ra để làm giống cho lứa sau. Kén nào nhỏ mà nhọn
đầu là kén đực, tròn mà đầy đặn là kén cái. Độ 12, 13 ngày sau, kể từ
khi tằm chín bắt đầu nhả tơ và làm thành kén thì nhộng biến thành con
ngài, ở trong cái kén được lựa làm giống, cắn thủng một đầu kén và chui
ra ngoài. Con ngài màu hơi trắng ngà, giống con bướm có bốn cánh, nhưng
cánh ngắn và nhỏ hơn cánh bướm, xòe ra hai bên, giữa là khúc mình tròn
mập, thon hai đầu, ngắn bằng nửa ngón tay út, cánh và mình dính đầy phấn
màu ngà. Con đực và con cái tìm nhau để giao phối. Ngài cái được đặt
vào nơi để đẻ trứng và chết. Một vòng quay mới lại bắt đầu với chu kỳ đẻ
trứng, trứng nở ra con tằm và rồi lại nhả tơ, đóng kén, hóa nhộng,
thành ngài… Con ngài cắn kén chui ra, bắt đầu một chu kỳ sống mới Ươm tơ Sau
khi gỡ xong khỏi né, kén để ươm tơ được dàn đều trên nong để loại tiếp
những kén bẩn, mỏng, thối, thủng đầu... Dụng cụ đựng phải cứng để kén
nhộng không bị dập nát trong quá trình vận chuyển. Kén tằm có
phẩm chất tốt không nhất thiết phải có kích thước lớn mà cần mẩy, nhiều
tơ, ít áo kén, dễ kéo tơ và kén phải đồng dạng về hình dạng và kích
thước. Từ khi bắt tằm chín lên né, độ hai ngày sau thì bắt đầu
ươm tơ. Phải ươm trong vòng độ 10, 12 ngày là phải xong hết các kén đã
đóng; nếu chậm, ngài cắn kén chui ra là coi như mất hết, không ươm được
tơ nữa vì sợi tơ bị cắn đứt. Ươm tơ thủ công Ươm
tơ, là quy trình gia công kéo sợi tơ từ kén tằm thành sợi tơ tằm. Trong
quy trình ươm tơ, người ta đem kén tằm nấu trong nước sôi, làm cho lớp
keo tơ secirine tan ra một phần, kén mềm và dễ dàng rút thành sợi. Khởi
đầu, người ta thả những cái kén vào nồi nước sôi hay chảo miệng rộng,
đảo kén thành từng nhóm nổi trên mặt nước, tìm mối tơ gốc rút ra, cho
quấn vào những con suốt, hình giống như lõi ống chỉ, xếp thẳng đứng
thành hàng ngang, rồi cho chạy vào những guồng tơ tròn bằng gỗ, nằm bắc
ngang trên nồi nước sôi, để kéo hết tơ ở mỗi cái kén làm thành con tơ.
Phần còn lại, lớp trong của kén cũng cho vào guồng ươm tơ quay vào ống
lấy tơ nõn màu vàng nhạt, là sợi nhỏ phía trong của kén. Sợi tơ này gồm
hai sợi nhỏ, tiết ra từ cặp tuyến tơ ở tằm chín và dán chặt vào nhau,
được bao phủ bởi một lớp keo (sericin ), người ta tẩy sạch lớp keo này
khi kéo tơ. Ươm tơ hiện đại Khi kén được lấy hết tơ, những con nhộng tằm lộ ra. Nhộng tằm là món ăn ngậy, béo và bổ dưỡng rất được ưa chuộng. Kén
cắn tổ, không thể ươm tơ thì được kéo thành sợi đũi. Sau đây là cách
kéo sợi đũi trong dân gian Việt nam:” Kén đem ngâm vào nước 3 giờ, vắt
sạch nước, nước ngâm và vắt từ nước kén ra gọi là nước cốt, nước này
phải giữ lại để sau ngâm kén lần nữa. Bỏ kén vào nồi đun sôi vài phút,
thấy kén thâm đều là được. Kén luộc xong, vắt kiệt nước thả vào nồi nước
cốt, ngâm một đêm thì kén chín, kén chín vừa kéo trơn và nhẹ tay. Kén
sống rất khó kéo và rất nặng tay, kén chín quá thì sợi nẫu ra thành một
cái búi rác, không kéo được. Người kéo sợi ngồi trên ghế sợi và thấp.
Trước một cái chậu sành đầy nước và kén, hai tay ngâm trong nước để kéo
sợi. Kéo sợi không dùng một công cụ trung gian nào dù đơn giản như đôi
đũa, một tay giữ kén, một tay kéo, thuận tay nào kéo tay ấy. Kéo xong
một mẻ dùng giằng sợi cuộn lại thành từng con, cho lên sào phơi, mỗi con
sợi tương đương một lạng. Thành phẩm này được dệt thành lụa đũi, Lụa
đũi to, xốp, mềm, nhẹ. Lực lượng kéo sợi đũi toàn là nữ giới, cụ già 70
- 80, mắt còn tinh thì kéo được. Kéo sợi trông đơn giản nhưng vất vả và
khó hơn ươm tơ. Hai tay ngâm nước suốt ngày này qua ngày khác. Mùa hè
nước ăn tay, phải thường xuyên xát phèn chua, mùa đông tê cóng thỉnh
thoảng phải đổ thêm nước nóng, kéo sợi dọc phải tinh mắt đều tay sợi mới
nuột, thợ lành nghề mới kéo được sợi dọc và để ra một thành phẩm nguời
thợ không chỉ có những kỹ năng mà chứa trong đó cả cái hồn của nghệ
thuật.” Tơ ươm xong được hong nắng Quá trình se sợi Sau
đó tơ nõn sẽ được se với nhau, tùy theo tính chất, số lượng sợi và vòng
xoắn để mắc cửi rồi dệt thành các loại hàng vải khác nhau. Từ
khi tằm nhả tơ cho đến lúc dệt thành vải phải trải qua nhiều giai đoạn:
ươm tơ, lấy tơ, nhập tơ, guồng tơ, đánh ống, mắc cửi … rồi nối cửi, rồi
dệt. Quay tơ phải giữ mối tơ Dù năm bảy mối vẫn chờ mối anh Quay tơ ra mắc, ra mành Mắc thì mắc dọc, mành thì dệt ngang Tơ
tằm được cuộn lại thành những nén tơ hoặc ống tơ. Tùy theo chất lượng
tơ, cách xử lý sợi tơ và cách xoắn sợi tơ, người ta sẽ có được những
loại tơ với tên gọi và chất lượng khác nhau. Cách gọi dân gian: Sợi mốt: là sợi tơ to, dùng để dệt dọc để dệt không bị đứt. Sợi mành: là sợi nhỏ, dùng để dệt ngang, lụa đều, không bị chỗ dày chỗ mỏng. Sợi đũi: là sợi của kén cắn tổ, không ươm tơ được, xù xì, thô hơn. Cách gọi theo phương thức se sợi: Sợi
đơn: là kết quả của quá trình xoắn 1 sợi tơ thô. Sợi được xoắn dạng này
gọi là sợi nhiễu, mousseliness , hay là sợi the xoắn. Sợi khổ: là sợi thu được từ quá trình xoắn hai hay nhiều sợi tơ thô. Những sợi tơ này được sử dụng để dệt ngang. Sợi xoắn: là sợi khổ được xoắn chặt Sợi
se 2 lần: 2 hay nhiều sợi đơn được se thành một sợi sau đó chúng được
chập đôi bằng quá trình xoắn ngược, phần lớn dùng để dệt dọc. Các loại tơ lụa Từ các sợi tơ ở trên, tùy theo cách dệt người ta có được những loại tơ lụa khác nhau. Em là con gái trong khung cửi Dệt lụa quanh năm với mẹ già Kiểu
dệt cổ truyền của Việt Nam là phối hợp, pha trộn các loại sợi dọc và
ngang để tạo ra những mặt hàng khác nhau. Người thợ khi dệt phải dùng
tay đưa, chân dận cùng lúc. Suốt là ống cuốn chỉ, nằm trong ruột
con thoi để nhả sợi. Dụng cụ sản xuất căn bản là khung cửi gỗ “ con cò
“, dệt ra loại hàng vuông, thô, mỏng, chừng 40 hay 60 cm ( Con cò đặt ở
trên và chính giữa khung dệt để thẳng sợi, làm chuẩn cho cái go khỏi
lệch ) Những vuông lụa mới dệt xong gọi là lụa mộc, chỉ có màu trắng ngà
hay vàng mỡ gà của tơ, được đem nhuộm sau. Khung dệt thân mẫu Bác Hồ dệt lụa nuôi con Theo
phương pháp thủ công, lụa mộc sẽ được ngâm trong nước trà, nước trầu
không, nhựa cây … rồi xả, nhuộm màu, phơi khô, nhuộm lại lần thứ hai để
ra đúng màu sắc như ý muốn. Màu nhuộm được pha chế với nguyên liệu hoàn
toàn tự nhiên như: hột rành rành ( Gardenia augusta, tiếng Hán là Chi tử
), lá bàng ( Terminalia catappa, tiếng Hán là Lãm nhân thụ ) than,
gạch Áo đen ai nhuộm cho mình Cho duyên mình thắm, cho tình anh thương Màu
thông dụng là màu đen ( thâm ) và màu nâu. Người ta nhuộm nâu bằng củ
nâu. Củ nâu ( Dioscorea cirrhosa - Evergreen yam) đem về, gọt vỏ xắt
mỏng, giã cho chảy nhựa, đổ thêm nước mà nhuộm. Nhuộm vài nước thì được
màu nâu non, nhiều nước thì có màu nâu già ( nâu đậm ). Các loại lụa
nhuộm cho màu gụ nâu. Nhuộm bằng củ nâu vừa bền màu lại vừa chắc sợi.
Ngâm nước bùn để có màu thâm. Màu tam giang là màu nâu tím. Người ta còn
dùng cánh kiến ( một loại sâu ở mạn Sơn La, Lai Châu ) để nhuộm màu nâu
đỏ. Có khi chuội ( trụng nước sôi ) lụa mộc để lấy màu trắng. Trong
miền Nam dùng trái mặc nưa để nhuộm lụa đen Tân Châu ( lãnh Mỹ A). (
Mặc nưa được trồng nhiều ở Campuchia. Cây cao vài ba thước. Lá nhỏ,
hình thuẫn, xanh láng. Trái giống như trái olive, khi còn sống màu
xanh, khi chín chuyển màu đen ) Nhuộm lụa lãnh Mỹ A Ngày
nay, kỹ thuật nhuộm hiện đại đem lại cho lụa tơ tằm những màu sắc đa
dạng và rực rỡ hơn nhưng dù sao trong sâu thẳm tâm hồn người dân Việt,
những màu sắc mộc mạc thiên nhiên vẫn được ưu ái quay về tìm kiếm. Lụa tơ tằm nhuộm màu bằng quả gấc thiên nhiên Với
bàn tay tinh tế và sự sáng tạo không ngừng của người dân Việt Nam, các
sản phẩm dệt ra từ tơ tằm rất phong phú, đa dạng như: lụa, là, gấm, vóc,
vân, the, lĩnh, băng, sa, xuyến, đoạn, nhiễu, đũi, cấp, kỳ cầu … Làm ra đủ các thứ hàng Hàng đơn, hàng kép dọc ngang tinh tường Lượt, là, lĩnh, lụa, xuyến, lương Đoạn, vân, gấm, vóc, sa, băng, kỳ cầu . Những mặt hàng có nền dày gồm: - Gấm: Nền
dày, bóng như xa tanh. Nền gấm thường có những hoa văn, chữ triện hay
chữ thọ với sắc màu tươi, sặc sỡ bằng kim tuyến, ngân tuyến được dệt như
thêu. Một tấm gấm thường có nhiều màu, phổ biến là năm màu: xanh, đỏ,
tím, vàng,trắng hay bảy màu, gọi là gấm ngũ thể hay thất thể. Do sợi
ngang ( tạo hoa nổi lên trên ) và sợi dọc ( tạo nền chìm ở dưới ) đều
được nhuộm màu nên khi có ánh sáng, đứng ở mỗi góc cạnh khác nhau, ta sẽ
thấy mình gấm có các màu sắc khác nhau. Áo gấm vua Hàm Nghi ban tặng người dân làng Phú gia- Hà tĩnh năm 1884, được dân làng giữ gìn cho đến ngày nay Gấm
có vẻ đẹp lộng lẫy, rực rỡ nên ngày xưa dân thường không được dùng, chỉ
có vua, quan mặc được mà thôi.Vua mặc gấm vàng có hai rồng chầu mặt
nguyệt hay hổ phù. Còn gấm may lễ phục cho các quan thường là gấm hoa
tròn hay gấm hoa bạc. Có câu:” Dệt gấm, thêu hoa “ - Vân: Là mặt
hàng xếp thứ nhì sau gấm. Hàng vân có nền lụa, mỏng hơn xa tanh, bao giờ
cũng có hai kiểu hoa dệt trên một tấm vân: hoa nổi và hoa chìm; Hoa nổi
bóng mịn, còn hoa chìm phải đưa lên ánh sáng mới thấy được. Đó là nét
độc đáo của hàng vân, nhờ có hoa thủng như vậy, nên các áo lót bên trong
sẽ nổi màu lên rất đẹp khi mặc áo ngoài may bằng vân.Vân được dùng dễ
may áo dài mặc vào dịp hội hè, đình đám. Những mặt hàng dày có số lượng sợi dọc nhiều là: - Lĩnh ( lãnh): Sợi
mịn, một mặt bóng, một mặt mờ do khi dệt đưa sợi dọc lên nhiều tạo nên
sự bóng loáng cho mặt hàng. Lĩnh thâm (đen ) trơn rất thông dụng, dùng
may váy, quần cho phụ nữ, ngoài lĩnh trơn còn có lĩnh hoa dầy dặn, có
điểm lấm tấm hoa mịn màng, kín đáo, có tên riêng là lĩnh hoa chanh, nổi
tiếng nhất là lĩnh Bưởi đen nhánh, óng mượt. - Đoạn: Đoạn cũng
được dệt theo cách thức của lĩnh, nhưng dày hơn, sợi dọc nhiều hơn cả
gấm. Đặc biệt sợi dọc, sợi ngang nổi đều nhau, mịn màng, óng ả. Đoạn
dùng để may áo dài cho nam giới mặc vào những dịp long trọng .Do hàng
đoạn dày nên người ta thường may áo đoạn bọc lụa bên trong mặc vào mùa
lạnh. - Vóc: Là một thứ đoạn mỏng, có hoa, dệt bằng sợi đồng màu,
dùng làm tán thờ thần hay may y phục cho vua chúa, quan lại. Vóc thường
đi chung với gấm: gấm vóc. Những mặt hàng dệt thủng ( thưa ): - The: Sợi
dệt bóng và mảnh, sợi dọc rất ít nên the thưa. Dệt the là bố trí các
sợi dọc và ngang không khít nhau, tạo nên hình thủng theo hàng ngang.
The có nhiều loại: the đơn ( mỏng ), the kép ( dầy ), và the hoa. The
được nhuộm thâm để may áo mặc bên ngoài, hay chuội cho trắng để mặc mùa
nóng, nổi tiếng nhất là the La Cả. Đối với dân thường, áo the được
coi là sang nhất và rất phổ biến. Những hàng the dùng may y phục tế lễ
gọi là hàng địa, thường có hoa văn đặc biệt như: song hạc, hổ phù, thủy
ba gợn sóng Sa, xuyến, băng cũng tựa như the, là các loại hàng
mỏng, bóng và bền: vì khi giặt không bị xô dạt sợi, dù mỗi mặt hàng mỗi
vẻ khác nhau - Sa: Sa được dệt rất mỏng nên trong suốt, tạo nên
những đường vân óng ánh rất đẹp nếu mặc áo trong màu trắng. Sa mỏng và
mát nên thường được mặc vào mùa hè. Có sa đơn và xa hoa. Xa hoa có
nhiều loại: đặc biệt là sa thất thể và sa cung đình( dùng may áo long
bào cho vua mặc vào mùa nóng ). - Xuyến ( quyến ): Xuyến như sa, có cát nổi ngang, mỏng hơn the trơn và thoáng trông tựa mành mành do sợi dầy xen lẫn sợi thưa. Xuyến mắc hơn the. - Băng: Cũng là mặt hàng thủng, trong suốt, có hoa lác đác, nhẹ hơn the. - Cấp: Mỏng gần giống như the, lượt và thường có hoa. - Lượt: Mặt hàng dệt thưa, mỏng, mịn, rất mềm, dùng may khăn, áo. - Lương: Có lương đơn và kép, dùng để may áo dài, làm khăn.
Các sản phẩm dệt khác: - Lụa: Có
hai loại: lụa trơn và lụa hoa , dệt bằng tơ nõn sao cho sợi dọc và sợi
ngang khít với nhau, tạo nên vẻ mịn màng, óng ả và độ dày vừa phải. - Là: Cùng
họ với lụa, dệt bằng tơ nõn, có những đường dọc nhỏ đều, thường được
dùng làm khăn màu hay nhuộm màu để làm các phần đổi màu trong y phục. Trang phục quan họ: quần lĩnh, áo the, khăn lụa nhiễu - Nhiễu: Là thứ lụa dệt bằng sợi đã se nên mặt nổi cát như hàng crêpe ngày nay, dùng làm khăn. - Kỳ cầu: Là thứ lụa bóng có hoa nhỏ, nền mịn và đều. - Đũi: Được
dệt từ tơ trong cùng của kén tằm, hơi thô, cũng dày và bền như nái,
nhưng mềm và mịn hơn. Đũi nguyên thủy óng màu vàng chín của kén tằm. Đũi
thì có loại trơn, loại hoa và đũi thọ hỉ. Đũi mộc mạc, thoáng, mát mùa
hè, ấm áp mùa đông, dùng may quần, áo và thắt lưng. - Sồi ( chồi ): Dệt bằng tơ gốc, thường dùng may yếm, khố, bao … - Nái: Được
dệt bằng sợi kéo từ vỏ kén bên ngoài nên thớ to, có nhiều lông và cục
sần, thường có màu vàng đậm, cứng nhưng rất bền. Nái dùng làm khăn, may
thắt lưng … Ngày nay với kỹ thuật dệt tiên tiến và các kỹ thuật
mới giúp khắc phục được khuyết điểm dễ nhăn, dễ hỏng của tơ tằm, người
ta sản xuất nhiều loại vải lụa tơ tằm khác nhau, phục vụ cho đủ mọi yêu
cầu trang phục: Chiffon: lụa chiffon tơ tằm mỏng tang, trong
mờ, mềm mại, có sự mềm mại, dịu dàng, ấm áp, tinh tế của tơ sợi tự
nhiên. Ngoài sản phẩm thông dụng là hàng màu trơn , hiện nay có rất
nhiều mặt hàng lụa chiffon in hoa văn mới lạ và đẹp mắt với nhiều kích
thước, thích hợp với nhiều loại trang phục. Habotai: đục nhẹ,
mỏng, nhẹ tơn, rất mềm mại và mát dịu. Rất nhẹ nhàng và tạo sự thoải mái
dễ chịu cho khách khi sử dụng nên lụa Habotai cũng được dùng để may áo
kiểu dùng cho mùa hè hoặc áo dây, áo ngủ . Satin: óng ả và mềm
mại , bóng đẹp. Lụa satin tơ tằm rất nhẹ nhàng, mềm mại, rút mồ hôi, mát
mẻ vào mùa hè, lại không tích điện dính sát vào người vào mùa đông..
Bên cạnh các màu trơn, lụa satin còn được in nhiều hoa văn phong phú đem
lại sự lựa chọn dễ dàng cho khách hàng để may áo cưới, trang phục hàng
ngày, thời trang và trang trí nội thất. Twill: có độ bóng vừa
phải, dày dặn và độ rũ cao hơn lụa habotai mà vẫn mềm mại, mát rượi, phù
hợp với mọi lứa tuổi. Tạo cảm giác nhẹ nhàng thoải mái khi mặc , không
gây khó chịu, kích thích da nên thích hợp mọi trang phục thời trang. Organza:
hơi cứng hơn Taffeta nhưng thưa và mỏng hơn và có thể nhìn xuyên suốt.
Sử dụng thích hợp nhất là các sản phẩm may mặc hoặc trang trí cho áo
cưới hoặc đầm dạ hội sang trọng. Taffeta: có độ bóng, độ cứng, “
đứng mình”, lại không bám da vào mùa đông nên phù hợp để may áo cưới,
áo vest, áo khoác, váy ngắn, quần tây hay kết hợp với các loại chất liệu
khác để may sản phẩm thời tr,ang công sở, dạo phố. Tussah: còn
gọi là “Đũi thô” là sản phẩm được dệt từ những sợi tơ thô của con tằm.
Đũi có bề mặt hơi khô nhưng có độ bóng nhẹ nên thích hợp cho sản phẩm áo
sơ mi nam , áo vest hoặc quần tây. Jacquard: mềm mại, nuột nà,
óng ả. Bên cạnh màu sắc tươi trẻ, đa dạng, óng ánh đặc trưng của tơ
tằm, các hoa văn phong phú trong kỹ thuật dệt hoa văn chìm đem lại sự
lựa chọn đa dạng cho khách hàng để may áo dài, trang phục thời trang,
trang trí nội thất. Damash: là loại vải dày dặn, có độ mềm vừa
phải, mềm mại hơn Taffeta, nhưng có độ bóng và ánh màu như satin, có
nhiều kiểu hoa văn lạ thích hợp may áo vest, quần tây, áo dài, cravat… Để
có được vải tấm lụa sang trọng, mềm mại, cần đầu tư biết bao nhiêu công
sức và thời gian. Chất liệu thiên nhiên tuyệt vời này đem lại cho chúng
ta sự thoải mái, an toàn, dễ chịu khi sử dụng và xứng đáng để chúng ta
trả giá cao để sử dụng chúng. Túi Việt là một trong những doanh nghiệp có thể cung cấp số lượng lớn các loại vải lụa, đũi truyền thống cho khách hàng trong và ngoài nước.
Nguồn ảnh và tư liệu: Internet |